(Ma-thi-ơ 13: 44-46) “44Nước thiên-đàng
giống như của báu chôn trong một đám ruộng kia. Một người kia tìm được thì giấu
đi, vui-mừng mà trở về, bán hết gia-tài mình, mua đám ruộng đó. 45Nước
thiên-đàng lại giống như một người lái-buôn kiếm ngọc châu tốt, 46khi đã
tìm được một hột châu quí giá, thì đi bán hết gia-tài mình mà mua hột châu đó.”
Nước thiên đàng giống như “một kho báu được giấu
trong một đám ruộng” và “nó giống như một thương nhân tìm kiếm những viên ngọc
châu tốt.”
Lời nói rằng thiên đàng giống như tìm kiếm kho báu
có nghĩa là khám phá ra sự quý giá của thiên đàng và cống hiến mọi thứ chúng ta
có để sống xứng đáng với giá trị của nó.
Điều này nói lên lòng nhiệt thành của những người
tin Đức Chúa Trời.
(Bình luận)
Khi Columbus (1451-1506) còn trẻ, ông đã cùng em
trai mình làm công việc vẽ bản đồ.
Columbus đã đọc tác phẩm Du hành của Marco Polo
(1254-1324) và mơ ước được đến đó.
Columbus nghĩ rằng Trái Đất hình cầu và có thứ gì
đó, không phải vách đá, ở phía Tây của đại dương.
Theo tác phẩm Du hành của Marco Polo, các nước
phương Đông như Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản có rất nhiều vàng và đồ trang sức
khiến bất kỳ ai nhìn thấy lần đầu cũng phải mê mẩn. Và ông nói rằng mái cung điện
được trang trí bằng đồ trang sức bằng vàng.
Ngoài ra còn có ba ngàn cung nữ, như thể họ từ trên
trời giáng xuống, nhảy múa, quyến rũ trái tim của những chàng trai trẻ và tạo
ra một thiên đàng tuyệt đẹp mang lại sự thỏa mãn cho tất cả mọi người.
Columbus luôn mơ ước được đến đó.
Columbus đã thuyết phục Nữ hoàng Isabella của Tây
Ban Nha.
“Có một đất nước ở phương Đông có rất nhiều vàng và
một đất nước rất tuyệt đẹp, và tôi sẽ chinh phục nó và làm cho nó trở thành đất
nước của Nữ hoàng. Không phải tất cả kho báu từ vùng đất mới đều là của Nữ
hoàng sao?”
Và ông đã thuyết phục Nữ hoàng thành công.
Vào năm 1492, Columbus trở thành Đô đốc Hải quân Tây
Ban Nha và rời cảng Paros để bắt đầu cuộc hành trình thám hiểm.
Columbus tin rằng vì Trái Đất hình cầu nên nếu chúng
ta đi về phía Tây thì chúng ta sẽ đến được phía Đông, vì vậy ông đã lên tàu và
đi về phía Tây.
Tuy nhiên, Columbus thậm chí còn không đi đến các nước
phía Đông mà chỉ phát hiện ra lục địa Châu Mỹ ở giữa đường.
Nơi đó trở thành điểm dừng chân trên đường đến đất nước phía Đông.
130 năm sau, khoảng năm 1620, những người Thanh giáo
Anh di cư đến Hoa Kỳ, nơi Tin lành phát triển ở đó, và vào những ngày cuối
cùng, Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia vàng ngọc về phần linh hồn đúng như những
gì Columbus đã nghĩ.
(Ê-sai 24: 14-16) “14Những kẻ nầy sẽ cất
tiếng lên, kêu rao; từ nơi-biển kêu lớn tiếng vui-mừng vì sự uy-nghiêm Đức
Giê-hô-va. 15Vậy hãy tôn-vinh Đức Giê-hô-va trong phương đông, hãy
tôn-vinh danh Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trong các cù-lao biển! 16Chúng
ta đã nghe từ nơi đầu-cùng đất hát rằng: Vinh-hiển cho kẻ công-bình! Nhưng tôi
nói: Tôi bị gầy-mòn, tôi bị gầy-mòn! Khốn-nạn cho tôi! Những kẻ gian-dối làm
gian-dối, phải, kẻ gian-dối làm gian-dối lắm!”
Đấng tiên tri Ê-sai nói rằng từ phương Đông, người
ta sẽ nghe thấy tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời, và từ nơi đầu-cùng đất, người ta
sẽ nghe thấy tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời.
(Ê-sai 41: 1-4) “1Hỡi các cù-lao, hãy
nín-lặng trước mặt ta; các dân-tộc hãy lấy sức mới; hãy đến gần, thì mới nói!
Chúng ta hãy đến gần nhau để xét-đoán! 2Ai đã khiến người kia dấy lên từ
phương đông, lấy sự công-bình gọi người đến kề chân mình? Ngài phó các dân-tộc
trước mặt Người, khiến người cai-trị các vua, phó họ như bụi cho gươm người, giống
như rác-rến bị gió thổi cho cung người. 3Người đuổi theo họ trên con đường
chưa hề đặt chân, mà vẫn vô-sự lướt dặm. 4Ai đã làm và thành-tựu việc nầy?
Ai đã gọi các dòng-dõi từ ban đầu? Ấy là chính ta, Đức Giê-hô-va, là đầu-tiên,
mà cũng sẽ ở với cuối-cùng.”
Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ dấy lên một người từ
phương Đông để làm công việc của Đức Chúa Trời.
(Ê-sai 41: 25-27) “25Ta dấy lên một người
từ phương bắc, và người đã đến; người kêu-cầu danh ta từ phía mặt trời mọc, giẵm
lên trên các quan-trưởng như giẵm trên đất vôi, khác nào thợ gốm nhồi đất
sét. 26Ai đã tỏ ra điều đó từ lúc ban đầu cho chúng ta biết? Ai đã rao ra
từ trước, đặng chúng ta nói rằng, người là công-bình? Nhưng chẳng ai rao hết,
chẳng ai báo hết, chẳng ai từng nghe tiếng các ngươi. 27Ấy chính ta đã
phán trước nhứt cùng Si-ôn rằng: Nầy, chúng nó đây! Ta sẽ sai một kẻ báo tin
lành đến Giê-ru-sa-lem.”
Ở giữa Ê-sai 41: 25 nói rằng ta đã khiến những ai
kêu cầu danh ta đến từ phía mặt trời mọc.
Trong Ê-sai 41: 27 nói rằng ta sẽ cho người mang Tin
lành đến Giê-ru-sa-lem.
Đấng tiên tri Ê-sai đã tiên tri rằng một người sẽ trỗi
dậy từ phương Đông.
(Ê-sai 46: 10-11) “10Ta đã rao sự cuối-cùng
từ buổi đầu-tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên. Ta phán rằng:
Mưu của ta sẽ lập, và ta sẽ làm ra mọi sự ta đẹp ý. 11Ta gọi chim ó đến từ
phương đông, và gọi người làm mưu ta đến từ xứ xa. Điều ta đã rao ra, ta sẽ làm
hoàn-thành, điều ta đã định, ta cũng sẽ làm.”
Những người nghiên cứu sách Ê-sai thường giải thích chim
ó đến từ phương Đông chỉ về vua vua Si-ru của nước Phê-rơ-sơ, và lời tiên tri kết
thúc như vậy.
Vào năm 536 trước công nguyên, vua Si-ru, nước
Phê-rơ-sơ đã phá hủy Ba-by-lôn và đã ra lệnh cho người dân Y-sơ-ra-ên xây dựng
lại Giê-ru-sa-lem.
Thật vậy, vua Si-ru đã mở đường cho tin mừng và sự tự
do cho người dân Y-sơ-ra-ên xác thịt.
Đó là lý do tại sao chúng ta tin rằng lời tiên tri về
chim ó đến từ phương Đông đã được ứng nghiệm với vua Si-ru.
Khi chúng ta giải thích về chim ó đến từ phương Đông,trước
hết vua Si-ru, vua của Phê-rơ-sơ, người đã giải phóng người dân Y-sơ-ra-ên khỏi
bị giam cầm ở Ba-by-lôn, và đưa họ trở về quê hương, như một sự ứng nghiệm của
lời tiên tri, nhưng sự ứng nghiệm thực sự của lời tiên tri phải đến trong Tân Ước.
Lời được kết nối với chim ó đến từ phương Đông trong
Ê-sai 46 là lời được kết nối với Ê-sai 41, và nó đề cập đến việc chọn ra một
người từ phương Đông để thực hiện kế hoạch của Ngài.
(Ê-xê-chi-ên 43: 1-5) “1Rồi người dắt ta
vào hiên-cửa, tức là hiên-cửa phía đông. 2Ta thấy vinh-quang của Đức Chúa
Trời Y-sơ-ra-ên từ phương đông mà đến. Tiếng Ngài giống như tiếng nước lớn, và
đất sáng rực vì vinh-quang Ngài. 3Sự hiện-thấy mà ta thấy bấy giờ, giống
như sự hiện-thấy đã hiện ra cho ta khi ta đến đặng hủy-diệt thành nầy. Ấy là những
sự hiện-thấy giống như sự hiện-thấy mà ta đã thấy trên bờ sông Kê-ba, và ta sấp
mặt xuống. 4Vinh-quang của Đức Giê-hô-va vào trong nhà do hiên-cửa hướng
đông. 5Thần cất ta lên và đem ta vào nơi hành-lang trong; và, nầy,
vinh-quang của Đức Giê-hô-va đầy nhà.”
Ê-xê-chi-ên nói rằng vinh quang của Đức Chúa Trời
đang đến từ phương Đông, và nó giống như một sự mặc khải về việc phá hủy thành
phố mà ông đã thấy trước đây.
Sự mặc khải về việc phá hủy thành phố trong quá khứ
đề cập đến những lời trong Ê-xê-chi-ên 9: 4.
(Ê-xê-chi-ên 9: 4-6) “4mà phán rằng: Hãy
trải qua giữa thành, tức giữa Giê-ru-sa-lem, ghi dấu trên trán những người nào
than-thở khóc-lóc về mọi sự gớm-ghiếc đã phạm giữa thành nầy. 5Rồi Ngài phán
cùng những người kia cách như cho tôi nghe rằng: Hãy qua trong thành đằng sau
nó, và đánh: mắt ngươi chớ đoái-tiếc, và đừng thương-xót. 6Nào già-cả, nào
trai-trẻ, nào gái đồng-trinh, nào con-nít, đàn-bà, hãy giết hết; nhưng chớ lại
gần một kẻ nào là kẻ đã có ghi dấu; và khá bắt đầu từ nơi thánh ta. Vậy các người
ấy bắt đầu từ các người già-cả ở trước mặt nhà.”
Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán cùng người mặc vải gai,
lưng đeo sừng mực rằng: “Hãy đi qua thành Giê-ru-sa-lem, và ghi dấu trên trán
những kẻ than thở và khóc-lóc về mọi sự gớm-ghiếc được thực hiện trong đó.”
Tại sao Ngài lại ghi dấu trán của họ?
Các vị thiên sứ sẽ mang theo khí-giới giết-lát trong
tay, nhưng Ngài phán bảo họ không được đến gần bất cứ ai có ghi dấu trên trán
và chỉ giết những người không có dấu.
Công việc này bắt đầu ở phương Đông.
Lời tiên tri này có liên quan đến Khải Huyền 7.
Trong Ê-xê-chi-ên 9, nói rằng dấu sẽ được ghi trên
trán, nhưng trong Khải Huyền 7 nói rằng ấn phải đóng trên trán.
(Khải huyền 7: 1-3ư) “1Sau việc ấy, tôi
thấy bốn vị thiên-sứ đứng ở bốn góc đất, cầm bốn hướng gió lại, hầu cho không
gió nào thổi trên đất, trên biển, hay là trên cây nào. 2Tôi lại thấy một vị
thiên-sứ khác, từ phía mặt trời mọc mà lên, cầm ấn của Đức Chúa Trời hằng sống.
Người cả tiếng kêu bốn vị thiên-sứ đã được quyền làm hại đất cùng biển, 3và
bảo rằng: Chớ làm hại đất, biển và cây-cối, cho đến chừng nào chúng ta đã đóng ấn
trên trán những tôi-tớ Đức Chúa Trời chúng ta.”
Từ gió trong Kinh thánh dùng để chỉ chiến tranh.
Gió này không đến từ một góc nào cả, nó dùng để chỉ
gió thổi từ bốn hướng của trái đất.
Bốn hướng của trái đất ám chỉ các cuộc chiến tranh
thế giới.
Vào thời điểm chiến tranh thế giới, một vị thiên-sứ
từ phía mặt trời mọc mà lên, kêu bốn vị thiên-sứ đã được quyền làm hại đất cùng
biển, mà rằng: “Chớ làm hại đất, biển và cây-cối, cho đến chừng nào chúng
ta đã đóng ấn trên trán những tôi-tớ Đức Chúa Trời chúng ta.”
Tại sao chúng ta phải đóng ấn của Đức Chúa Trời?
Chỉ khi ấn của Đức Chúa Trời được đóng lên trán thì
chúng ta mới có thể sống sót qua cơn gió kinh hoàng.
Con số được đóng ấn là 144.000.
Công việc đóng ấn của Đức Chúa Trời phải xuất hiện ở
phương Đông “nơi mặt trời mọc”.
Ấn của Đức Chúa Trời trong Khải Huyền 7 đề cập đến
huyết của con chiên Lễ Vượt Qua.
Chỉ những ai được đóng ấn bằng huyết của con chiên Lễ
Vượt Qua mới có thể sống sót sau tai vạ cuối cùng và đi đến nước thiên đàng.
Chim ó đến từ phương Đông trong Ê-sai 46 đề cập đến
“sứ mệnh của Ê-li”, Đấng đến như một vị thiên sứ đóng ấn vào lúc tận thế, và đề
cập đến Đấng Christ, Đấng đến trong bí mật vào lúc tận thế.
Giải thích về 12 chi phái.
Trong Khải Huyền 7 nói về số lượng những người được
đóng ấn trong các chi phái của con cái Y-sơ-ra-ên là 144.000.
Điều này được giải thích như thế nào trong Tân Ước?
(Ga-la-ti 3: 26-29) “26Vì chưng anh em bởi
tin Đức Chúa Jêsus-Christ, nên hết thảy đều là con trai của Đức Chúa Trời. 27Vả,
anh em thảy đều chịu phép báp-têm trong Đấng Christ, đều mặc lấy Đấng Christ vậy. 28Tại
đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi-mọi
hoặc người tự-chủ; không còn đàn-ông hoặc đàn-bà; vì trong Đức Chúa
Jêsus-Christ, anh em thảy đều làm một. 29Lại nếu anh em thuộc về Đấng
Christ, thì anh em là dòng-dõi của Áp-ra-ham, tức là kẻ kế-tự theo lời hứa.”
Khi chúng ta chịu phép báp têm trong Đấng Christ,
chúng ta trở thành con cái của Áp-ra-ham và là con cái của Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta chịu phép báp têm trong Đấng Christ,
không còn sự phân biệt giữa người Giu-đa và người Gờ-réc, người tôi-mọi hoặc
người tự-chủ; không còn đàn-ông hoặc đàn-bà.
Khi giải thích 12 chi phái Y-sơ-ra-ên trong Khải Huyền
7 trong Tân Ước, không có sự phân biệt giữa các chi phái.
Bởi vì khi chúng ta chịu phép báp têm trong Đấng
Christ, chúng ta trở thành con cái của Áp-ra-ham và là con cái của Đức Chúa Trời.
(Rô-ma 2: 28-29) “28Vì người nào chỉ bề
ngoài là người Giu-đa, thì không phải là người Giu-đa, còn phép cắt-bì làm về
xác-thịt ở ngoài, thì không phải là phép cắt-bì; 29nhưng bề trong là người
Giu-đa mới là người Giu-đa, phép cắt-bì bởi trong lòng, làm theo cách thiêng-liêng,
không theo chữ-nghĩa, mới là phép cắt-bì thật. Một người Giu-đa như vậy được
khen-ngợi, chẳng phải bởi loài người, bèn là bởi Đức Chúa Trời.”
Sứ đồ Phao-lô nói với người Rô-ma rằng họ phải trở
thành người Giu-đa.
Tại sao người Rô-ma phải trở thành người Giu-đa khi
họ không phải là người Giu-đa?
Sứ đồ Phao-lô nói rằng có những người Giu-đa bên
ngoài và có những người Giu-đa bên trong.
Ông nói rằng một người Giu-đa bề ngoài không phải là
một người Giu-đa thực sự, nhưng một người Giu-đa bên trong là một người Giu-đa
thực sự, và việc cắt bì được thực hiện trong tấm lòng.
(Rô-ma 9: 6-8) “6Ấy chẳng phải lời Đức
Chúa Trời là vô-ích. Vì những kẻ bởi Y-sơ-ra-ên sanh-hạ, chẳng phải vì đó mà hết
thảy đều là người Y-sơ-ra-ên. 7Cũng không phải vì là dòng-dõi của
Áp-ra-ham thì hết thảy đều là con-cái người; nhưng có chép rằng: Ấy là bởi
Y-sác mà ngươi sẽ có một dòng-dõi gọi theo tên ngươi; 8nghĩa là chẳng phải
con-cái thuộc về xác-thịt là con-cái Đức Chúa Trời, nhưng con-cái thuộc về lời
hứa thì được kể là dòng-dõi Áp-ra-ham vậy.”
Không phải con cái xác thịt là con cái của Đức Chúa
Trời, và cũng không phải tất cả dòng dõi của Áp-ra-ham đều là con cái của Ngài;
nhưng chính thông qua “Y-sác” mà dòng dõi của Ngài sẽ được gọi.
Điều này có nghĩa là con cái của lời hứa được coi là
dòng dõi Ngài.
Khi giải thích 12 chi phái trong Tân Ước, bằng cách
chịu phép báp têm trong Đấng Christ, chúng ta trở thành con cái của Áp-ra-ham
và là con cái của Đức Chúa Trời.
Sự kiện 12 chi phái Y-sơ-ra-ên được ghi lại trong Khải
Huyền 7 ám chỉ đến sứ mệnh của Ê-li là khôi phục các điều lệ, sắc lệnh và luật
pháp cơ bản của Đức Chúa Trời, giống như cách Ê-li dựng một bàn thờ cho Đức
Chúa Trời theo số lượng 12 chi phái Y-sơ-ra-ên.
Đóng ấn trong Khải Huyền 7 cũng là đóng ấn cho 12
chi phái Y-sơ-ra-ên.
Điều này tượng trưng cho số dân còn sót lại của Đức
Chúa Trời, những người hoàn toàn tuân giữ các điều lệ, sắc lệnh và luật pháp của
Đức Chúa Trời, giống như Ê-li đã dựng một bàn thờ cho Đức Chúa Trời theo số lượng
12 chi phái Y-sơ-ra-ên.
Ý nghĩa của chim ó đến từ phương Đông là chỉ về Đức
Chúa Trời ở phương Đông.
(Phục-truyền Luật-lệ Ký 32: 10-12)
“10Ngài tìm được người trong một nơi rừng-rú, Tại nơi vắng-vẻ, giữa những tiếng
hét la của đồng vắng. Ngài bao-phủ người, săn-sóc người, Gìn-giữ người như con
ngươi của mắt mình. 11Như phụng-hoàng phấp-phới giỡn ổ mình, Bay chung-quanh
con nhỏ mình, Sè cánh ra xớt nó, Và cõng nó trên chéo cánh mình thể nào, 12Thì
một mình Đức Giê-hô-va đã dẫn-dắt người thể ấy, Không có thần nào khác ở cùng
người…”
Đức Chúa Trời đã đưa người dân của Ngài vượt sông
như những con phụng-hoàng. (Chim ưng, chim ó, phụng hoàng theo bản dịch chỉ là
một)
(Xuất Ê-díp-tô ký 19: 4) “4Các ngươi đã
thấy điều ta làm cho người Ê-díp-tô, ta chở các ngươi trên cánh chim ưng làm
sao, và dẫn các ngươi đến cùng ta thế nào.”
Đức Chúa Trời đã dẫn dắt người dân Ngài như một con
chim ưng mẹ mang con mình trên đôi cánh của mình.
(Khải huyền 12:14) “14Nhưng người được
ban cho một cặp cánh chim phụng-hoàng, đặng bay về nơi đồng vắng là chỗ ẩn-náu
của mình; ở đó được nuôi một thì, các thì, và nửa thì, lánh xa mặt con rắn.”
Ở đây nói rằng họ đã được ban cho một cặp cánh chim
phụng-hoàng.
Chim ó đến từ phương Đông chỉ về Đức Chúa Trời ở
phương Đông. Amen!!!