Lời này được trích từ ghi chú viết tay quyển số 2 của thầy Ahn sahng-hong.
Đức Chúa Giê-su là Vua của người Giu-đa,
và chúng ta phải trở thành người Giu-đa phần linh hồn để được cứu.
(Sáng thế ký 49:9-11) “9Giu-đa
là một sư-tử tơ; Hỡi con! Con bắt được mồi rồi tha về. Nó sụm gối, nằm khác nào
sư-tử đực, Như sư-tử cái; há ai dám khiến ngồi lên? 10Cây phủ-việt chẳng hề dời
khỏi Giu-đa, Kẻ lập-pháp không dứt khỏi giữa chân nó, Cho đến chừng Đấng
Si-lô hiện tới, Và các dân vâng-phục Đấng đó. 11Người buộc lừa tơ mình vào
gốc nho, Lừa con mình vào nhành nho tốt nhứt. Người giặt áo-xống mình vào rượu
nho, Cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình.”
Sáng Thế Ký 49 là nội dung lời chúc phước
của Gia-cốp cho con cháu trước khi ông qua đời. Điều chúng ta cần chú ý qua lời
chúc phước của Gia-cốp là Đấng Mê-si sẽ đến qua chi phái nào.
“Cho đến chừng Đấng Si-lô hiện tới”
nghĩa là cho đến khi Đấng Cứu Chúa đến.
Lời tiên tri này cuối cùng đã dẫn đến sự
đến của Đấng Mê-si thông qua chi phái Giu-đa.
Ngay cả trong thời kỳ cuối cùng, Đấng
Mê-si vẫn được định sẵn sẽ đến từ dòng dõi đó, và chi phái Giu-đa cuối cùng sẽ
chiến thắng.
Bản dịch tiếng Hàn
(Ê-xê-chi-ên 21:27) - (Ê-xê-chi-ên 21:32) “32Ta sẽ úp-đổ, úp-đổ, úp-đổ nó; sự nầy
cũng sẽ không còn nữa, cho đến chừng nào Đấng đáng được sẽ đến, thì ta sẽ giao
cho.”
“Cho đến chừng nào Đấng đáng được sẽ đến,
thì ta sẽ giao cho” nghĩa là khi Đấng Christ, Đấng sẽ đến, Ngài sẽ ban cho người
ấy một vương miện và lập người ấy làm vua.
Nếu chúng ta tra cứu trong các tài liệu
tham khảo trong (Sáng thế ký 49:10, Giăng 1:49, Khải huyền 17:14). Người dân
Y-sơ-ra-ên đã phạm tội, trái luật pháp, và các đấng tiên tri đã chỉ ra những
hành vi sai trái của họ và rao giảng lẽ thật.
Tuy nhiên, những lời dối trá đã trở
thành lẽ thường tình của thời đại, và ngay cả khi lẽ thật được rao giảng, nó vẫn
không thể thấm nhuần vào những tâm trí cứng nhắc của lẽ thường tình. Đây là lý
do tại sao Đấng Christ đến để làm chứng cho lẽ thật đích thực và phán xét kẻ
ác.
Đức
Chúa Giê-su phán rằng sự cứu rỗi đến từ người Giu-đa.
(Giăng 4:21-22) “20Tổ-phụ
chúng tôi đã thờ-lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ-lạy
là tại thành Giê-ru-sa-lem. 21Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi người đàn-bà,
hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ-lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy,
cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem.”
Đức Chúa Giê-su phán rằng sự cứu rỗi đến
từ người Giu-đa.
Những người Giu-đa được nhắc đến ở đây
là những người Giu-đa phần linh hồn.
Chỉ khi chúng ta trở thành người Giu-đa phần
linh hồn, chúng ta mới có thể nhận được sự cứu rỗi.
Đức Chúa Giê-su phán rằng Ngài đến với
tư cách là Vua của người Giu-đa.
(Ma-thi-ơ 2:1-2) “1Khi Đức
Chúa Jêsus đã sanh tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, đang đời vua Hê-rốt, có mấy
thầy bác-sĩ ở đông-phương đến thành Giê-ru-sa-lem, 2mà hỏi rằng: Vua dân
Giu-đa mới sanh tại đâu? Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông-phương, nên
đến đặng thờ-lạy Ngài.”
Đức Chúa Giê-su giáng sinh tại Bết-lê-hem,
xứ Giu-đê.
Bết-lê-hem cách Giê-ru-sa-lem khoảng sáu
dặm.
Từ xa, các nhà thông thái quan sát các
vì sao và tìm thấy một ngôi sao.
Họ đi theo nó.
Sau khi vượt qua những ngọn đồi và băng
qua sa mạc, họ đến thành Giê-ru-sa-lem.
Các nhà thông thái tin rằng một vị vua
vĩ đại đã được sinh ra tại Giu-đê.
Các nhà thông thái hỏi dân thành Giê-ru-sa-lem
rằng: “Vua dân Giu-đa mới sinh hiện ở đâu?”
Họ nói rằng: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao
phương Đông và đến tìm Ngài.”
Các nhà thông thái hỏi tất cả mọi người
họ gặp, nhưng không ai trả lời.
Điều này gây ra một sự náo động lớn ở Giê-ru-sa-lem.
Khi Hê-rốt nghe tin, ông ta vô cùng tức
giận.
Ông ta không muốn ai thay thế mình.
Nhưng ông ta giữ bí mật và nói với các
nhà thông thái rằng: “Khi các ngươi tìm thấy vị vua mới sinh, ta cũng muốn thờ
phượng Ngài. Sau khi thờ phượng Ngài, hãy trở lại và cho ta biết.”
Đêm đó, ngôi sao lại hiện ra và dẫn đường
cho các nhà thông thái đến Bết-lê-hem, nơi họ gặp Đức Chúa Giê-su.
Đức Chúa Giê-su đã sinh ra làm Vua dân Giu-đa.
(Ma-thi-ơ 27:11-12) “11Đức
Chúa Jêsus đứng trước quan tổng-đốc, quan hỏi rằng: Có phải ngươi là Vua của
dân Giu-đa không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời. 12Trong lúc các thầy
tế-lễ cả và các trưởng-lão kiện Ngài, Ngài không đối-đáp gì hết.”
Giu-đa Ích-ca-ri-ốt đã phản bội Đức Chúa
Giê-su.
Giu-đa đã bán Ngài cho các thầy tế lễ cả
với giá ba mươi miếng bạc.
Đức Chúa Giê-su bị dẫn đến nhà thầy tế lễ
thượng phẩm Cai-phe và bị thẩm vấn.
Sau đó, thầy tế lễ thượng phẩm đã tố cáo
Ngài và giao Ngài cho tổng đốc Phi-lát.
Phi-lát hỏi rằng: “Những người này nói rằng
Ngài là Vua dân Giu-đa. Họ có thực sự nói như vậy không?”
Đức Chúa Giê-su đáp: “Thật như lời.”
Đức Chúa Giê-su đã đến với tư cách là
Vua dân Giu-đa.
(Ma-thi-ơ 27:35-37) “35Họ đã
đóng đinh Ngài trên cây thập-tự rồi, thì bắt thăm mà chia nhau áo-xống của
Ngài. 36Rồi họ ngồi đó mà canh-giữ Ngài. 37Phía trên đầu Ngài họ để
cái bảng đề chữ, chỉ về án Ngài, rằng: Người nầy là Jêsus, Vua dân
Giu-đa.”
Tội trạng Đức Chúa Giê-su trên thập tự
giá là: “Người nầy là Jêsus, Vua dân Giu-đa.”
(Giăng 18:33-40) “33Phi-lát
bèn vào trường-án, truyền đem Đức Chúa Jêsus đến, mà hỏi rằng: Chính ngươi là
Vua dân Giu-đa, phải chăng? 34Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi nói điều đó tự
ý mình, hay là có người đã nói điều đó với ngươi về ta? 35Phi-lát trả lời
rằng: Nào có phải ta là người Giu-đa đâu? Dân ngươi cùng mấy thầy tế-lễ cả đã nộp
ngươi cho ta; vậy ngươi đã làm điều gì? 36Đức Chúa Jêsus đáp lại rằng: Nước
của ta chẳng phải thuộc về thế-gian nầy. Ví bằng nước ta thuộc về thế-gian nầy,
thì tôi-tớ của ta sẽ đánh trận, đặng ta khỏi phải nộp cho dân Giu-đa; nhưng hiện
nay nước ta chẳng thuộc về hạ-giới. 37Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi
là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã
sanh và vì sao ta đã giáng-thế: Ấy là để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về
lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta. 38Phi-lát hỏi rằng: Lẽ thật là cái gì? Khi
người đã nói vậy, rồi lại đi ra đến cùng dân Giu-đa, mà rằng: Ta chẳng thấy người
có tội-lỗi gì cả. 39Nhưng các ngươi có lệ thường, hễ đến ngày lễ Vượt-qua,
thì ta tha cho các ngươi một tên tù, vậy các ngươi có muốn ta tha Vua dân
Giu-đa cho chăng? 40Chúng bèn kêu lên nữa rằng: Đừng tha nó, nhưng tha
Ba-ra-ba! Vả, Ba-ra-ba là một kẻ trộm-cướp.”
Trong Giăng 18:37 nói rằng: “Thật như lời,
ta là vua” nghĩa là Đức Chúa Giê-su là Vua dân Giu-đa.
(Giăng 19:19-22) “19Phi-lát
cũng sai làm một tấm bảng, rồi treo lên trên thập-tự-giá. Trên bảng đó, có đề
chữ rằng: Jêsus người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa. 20Vì nơi Đức Chúa
Jêsus bị đóng đinh ở gần thành, và chữ đề trên bảng đó viết bằng chữ Hê-bơ-rơ,
chữ La-tinh và chữ Gờ-réc, nên có nhiều người Giu-đa đọc đến. 21Các thầy tế-lễ
cả của dân Giu-đa bèn nói với Phi-lát rằng: Xin đừng viết: Vua dân Giu-đa;
nhưng viết rằng, người nói: Ta là Vua dân Giu-đa. 22Phi-lát trả lời rằng:
Lời ta đã viết, thì ta đã viết rồi.”
Khi Phi-lát đóng đinh Đức Chúa Giê-su
trên thập tự giá, ông ta viết rằng: “Jêsus người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa.”
Các thầy tế lễ cả yêu cầu Phi-lát sửa lại:
Xin đừng viết: “Vua dân Giu-đa; nhưng viết rằng, người nói: Ta là Vua dân
Giu-đa.”
Tuy nhiên, Phi-lát từ chối.
(Rô-ma 2:28-29) “28Vì người
nào chỉ bề ngoài là người Giu-đa, thì không phải là người Giu-đa, còn phép cắt-bì
làm về xác-thịt ở ngoài, thì không phải là phép cắt-bì; 29nhưng bề trong
là người Giu-đa mới là người Giu-đa, phép cắt-bì bởi trong lòng, làm theo cách
thiêng-liêng, không theo chữ-nghĩa, mới là phép cắt-bì thật. Một người Giu-đa
như vậy được khen-ngợi, chẳng phải bởi loài người, bèn là bởi Đức Chúa Trời.”
Sứ đồ Phao-lô nói rằng có những người Giu-đa
cả bề ngoài lẫn bề trong.
Ông nói rằng những người bề ngoài không
phải là người Giu-đa, nhưng những người bề trong mới là người Giu-đa chân thật.
Ông nói rằng phép cắt bì bởi trong lòng.
Hội thánh Tin Lành thường diễn giải lời
này theo nghĩa là người ta không nên chỉ giả vờ là một tín đồ, mà phải là một
tín đồ chân chính.
Mặc dù điều đó đúng, nhưng nếu hiểu sâu
hơn, chúng ta thấy rằng trở thành một người Giu-đa phần linh hồn có nghĩa là
tuân thủ và thực hành luật pháp người Giu-đa một cách triệt để (luật pháp
Si-ôn).
(Khải Huyền 2:9) 9Ta biết
sự khốn-khó nghèo-khổ của ngươi (dầu ngươi giàu có mặc lòng), và những lời
gièm-pha của kẻ xưng mình là người Giu-đa, mà kỳ thực không phải, chúng nó vốn
thuộc về hội quỉ Sa-tan.”
Họ tự xưng là người Giu-đa mà không phải,
nhưng là hội quỉ Sa-tan.
Lời này là lời tiên tri về hội thánh ở Si-miệc-nơ.
Thời kỳ tiên tri của hội thánh ở Si-miệc-nơ kéo dài từ năm 106
SCN, khi các sứ đồ qua đời, đến năm 313 SCN.
Năm 197 SCN, dưới thời Giáo hoàng
Victor, Hội thánh phương Đông cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Nisan và
sau đó vài ngày lại cử hành Lễ Phục Sinh, trong khi Hội thánh phương Tây không
cử hành Lễ Vượt Qua mà chỉ cử hành Lễ Phục Sinh.
Giáo hoàng Victor đã áp dụng luật Dominic
và buộc mỗi Hội thánh cử hành Lễ Phục Sinh mà không cử hành Lễ Vượt Qua.
Các Hội thánh phương Đông và phương Tây đi
theo con đường riêng của mình, với Hội thánh phương Tây đóng vai trò của Sa-tan.
Họ tự xưng là người Giu-đa, nhưng không
phải, mà là hội quỉ Sa-tan.
Do đó, một người Giu-đa chân chính phải
cử hành các ngày lễ Giu-đa để được gọi là người Giu-đa chân chính.
Chúng ta phải cử hành các ngày lễ Giu-đa.
Ở đây, lời này nói rằng chúng ta phải có
đời sống tâm linh người Giu-đa.
Người Giu-đa phần linh hồn là gì?
Những người đã trở thành con cái Đức
Chúa Trời thông qua Đức Chúa Giê-su được gọi là người Giu-đa phần linh hồn.
Những người tuân giữ trọn vẹn các lễ trọng
thể của giao ước mới (các lễ trọng thể của người Giu-đa) được gọi là người Giu-đa
phần linh hồn.
(Khải Huyền 18:1-5) “1Sau điều
đó, tôi thấy một vị thiên-sứ khác ở trên trời xuống, người có quyền lớn, và sự
vinh-hiển người chiếu rực-rỡ trên đất. 2Người kêu lớn tiếng rằng:
Ba-by-lôn lớn đã đổ rồi, đã đổ rồi! Thành ấy đã trở nên chỗ ở của các ma-quỉ,
nơi hang-hố của mọi tà-thần, hang-hố của mọi giống chim dơ-dáy mà người ta gớm-ghiếc, 3vì
mọi dân-tộc đều uống rượu dâm-loạn buông-tuồng của nó, vì các vua thế-gian đã
cùng nó phạm tội tà-dâm, và vì các nhà buôn trên đất đã nên giàu-có bởi sự quá
xa-hoa của nó. 4Tôi lại nghe một tiếng khác từ trên trời đến rằng: Hỡi
dân ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn, kẻo các ngươi dự phần tội-lỗi với nó, cũng chịu
những tai-họa nó nữa chăng; 5vì tội-lỗi nó chất cao tày trời, và Đức
Chúa Trời đã nhớ đến các sự gian-ác nó.”
Giăng thấy một thiên sứ khác từ trời xuống,
có quyền lớn, và đất được chiếu sáng bởi vinh quang của thiên sứ ấy.
Với ánh sáng vinh quang đó, họ có thể
nhìn thấy nơi trú ngụ của ma quỷ và hang-hố của chúng.
Vậy ánh sáng vinh quang có thể nhìn thấy
nơi trú ngụ của ma quỷ và hang-hố của chúng là gì?
Nó ám chỉ ánh sáng lẽ thật của Lễ Vượt
Qua.
Ba-by-lôn Lớn là nơi như thế nào?
Ngài nói rằng đó là nơi trú ngụ của ma
quỷ và là nơi tụ họp của đủ loại tà thần.
Nó đã trở thành hội quỉ Sa-tan.
Trong Khải Huyền 18:4 chép rằng: “Hỡi
dân ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn, kẻo các ngươi dự phần tội-lỗi với nó, cũng chịu
những tai-họa nó nữa chăng”
Dân sự Đức Chúa Trời đang ở Ba-by-lôn.
Chúng ta phải làm chứng cho họ về lẽ thật
và dẫn dắt họ đi trên con đường đúng đắn.
(Hê-bơ-rơ 7:14-15) “14Vì thật
rõ-ràng Chúa chúng ta ra từ Giu-đa, về chi-phái ấy, Môi-se không nói điều chi về
chức tế-lễ. 15Mọi điều đó càng thêm rõ hơn nữa, khi chúng ta thấy một thầy
tế-lễ khác dấy lên, giống như Mên-chi-xê-đéc”
Sứ đồ Phao-lô nói rằng Đức Chúa Giê-su
xuất thân từ Giu-đa.
Điều này tiếp nối lời tiên tri trong
Sáng thế ký 49:10.
(Giăng 6:4) “4Vả, lễ Vượt-qua,
là lễ của dân Giu-đa gần tới.”
(Giăng 7:2) “2Vả, ngày lễ của
dân Giu-đa, gọi là lễ Lều-tạm gần đến.”
Đức Chúa Giê-su và các môn đồ của Ngài
đã cử hành Lễ Vượt Qua của người Giu-đa và Lễ Lều Tạm của người Giu-đa.
Chúng ta cũng phải cử hành Lễ Vượt Qua của
người Giu-đa và Lễ Lều Tạm của người Giu-đa.
Lễ Vượt Qua của người Giu-đa diễn ra vào
ngày 14 tháng Nisan.
Tuy nhiên, thế giới cử hành lễ của người
La Mã, chứ không phải lễ của người Giu-đa.
Trên trang 125-126 của cuốn
sách Công giáo có tựa đề Đức tin của các Giáo phụ. ( Đức tin Cha cố)
● Vấn đề bãi bỏ Lễ Vượt
Qua được đề cập.
Dưới thời Giáo hoàng
Victor, các Hội thánh trên khắp Tiểu Á đã tưởng niệm sự khổ nạn và thương khó
vào ngày 14 tháng Nisan, tức Lễ Vượt Qua của người Giu-đa.
Sau đó, họ cử hành Lễ Phục
Sinh vào ngày 16 tháng Nisan.
Tuy nhiên, Giáo hội Công
giáo La Mã không cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Nisan, mà cử hành Lễ Phục
Sinh vào Chúa Nhật sau ngày Nisan.
Giáo hoàng Victor, mong muốn
sự thống nhất trong các nghi lễ Công giáo và tránh nhầm lẫn với các ngày lễ Giu-đa,
đã yêu cầu “tất cả các giám mục Tiểu Á” phải cử hành lễ này như được cử hành tại
Rô-ma.
Tất cả đều tuân thủ.
Trong triều đại của Giáo
hoàng Victor, Lễ Vượt Qua vào ngày 14 tháng Nisan đã bị bãi bỏ và thay thế bằng
Lễ Phục Sinh, buộc toàn thế giới phải tuân theo các ngày lễ của Rô-ma.
Chúng ta phải cử hành Lễ Vượt Qua của
người Giu-đa và Lễ Lều Tạm của người Giu-đa như chúng ta vẫn luôn cử hành.
Điều này là bởi vì chúng ta là người Giu-đa
về phần linh hồn.
Trong ghi chú viết tay của thầy Ahn
sahng-hong có chép rằng:
“Đất nước Y-sơ-ra-ên ngày nay không được
gọi là đất nước Giu-đa vì có những người Giu-đa chân chính ở Hàn Quốc.” (Chỉ về
những người Giu-đa về phần linh hồn.)
Chúng ta là những người Giu-đa về phần
linh hồn.
Chúng ta phải cử hành các ngày lễ của
người Giu-đa.
A-men!!!