Lời này được trích từ ghi chú viết tay quyển số 1 của thầy Ahn sahng-hong.
Hội Thánh của Đức Chúa Trời chúng ta được
thành lập vào Ngày Lễ Chuộc Tội năm 1964.
Hôm nay, khi nói “Hội thánh phải có tổ
chức” không có nghĩa là lập nên một tổ chức mới, mà là phải duy trì và vận hành
tốt theo đúng tổ chức mà thầy Ahn sahng-hong đã lập ra.
Tổ chức của Hội thánh chúng ta được đặt
nền tảng trên cách thức mà Hội thánh sơ khai đã thực hành.
Khi lập tổ chức Hội thánh, thầy Ahn sahng-hong
đã dựa trên nền tảng đó, vì vậy chúng ta đang đi theo cơ sở ấy.
Có các Hội thánh địa phương và Đại hội đồng.
Dù các Hội thánh địa phương vận hành
riêng rẽ, nhưng khi nhóm lại trong Đại hội đồng thì trở nên một.
Tổ
chức của dân Y-sơ-ra-ên vào thời Xuất Ê-díp-tô Ký được mô tả trong Dân số ký 1.
(Dân số ký 1:3-53) “3từ
hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được; ngươi
và A-rôn sẽ kê sổ chúng nó tùy theo đội-ngũ của họ. 4Trong mỗi chi-phái phải
có một người giúp-đỡ các ngươi, tức là người làm tộc-trưởng của chi-phái mình.
5Đây là tên những người sẽ giúp-đỡ các ngươi: Về chi-phái Ru-bên, Ê-lít-su, con
trai của Sê-đêu; 6về chi-phái Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên, con trai của
Xu-ri-ha-đai; 7về chi-phái Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp; 8về
chi-phái Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a; 9về chi-phái Sa-bu-lôn,
Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn; 10về con cháu Giô-sép, nghĩa là về chi-phái
Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai của A-mi-hút; về chi-phái Ma-na-se, Ga-ma-li-ên,
con trai của Phê-đát-su; 11về chi-phái Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai của
Ghi-đeo-ni; 12về chi-phái Đan, A-hi-ê-xe, con trai của
A-mi-sa-đai; 13về chi-phái A-se, Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran; 14về
chi-phái Gát, Ê-li-a-sáp, con trai của Đê-u-ên; 15về chi-phái Nép-ta-li,
A-hi-ra, con trai của Ê-nan. 16Đó là những người được gọi từ trong hội-chúng,
vốn là quan-trưởng của các chi-phái tổ-phụ mình, và là quan-tướng quân-đội
Y-sơ-ra-ên. 17Vậy, Môi-se và A-rôn nhận lấy các người ấy mà đã được xướng
tên; 18đến ngày mồng một tháng hai, truyền nhóm cả hội-chúng, cứ kể tên từng
người từ hai mươi tuổi sắp lên mà nhập sổ theo họ-hàng và tông-tộc của họ. 19Vậy,
Môi-se kê sổ chúng nó tại đồng vắng Si-na-i, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn.
20Con-cháu Ru-bên, là trưởng-nam của Y-sơ-ra-ên, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng
và tông-tộc mình, cứ kể từng tên của hết thảy nam-đinh từ hai mươi tuổi sắp
lên, tức là mọi người trong chi-phái Ru-bên đi ra trận được, 21số là bốn
mươi sáu ngàn năm trăm. 22Con-cháu Si-mê-ôn, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và
tông-tộc mình, cứ kể từng tên của hết thảy nam-đinh từ hai mươi tuổi sắp lên, tức
là mọi người trong chi-phái Si-mê-ôn đi ra trận được, 23số là năm mươi
chín ngàn ba trăm. 24Con-cháu Gát, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc
mình, cứ kể từng tên từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái
Gát đi ra trận được, 25số là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi.
26Con-cháu Giu-đa, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng
tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Giu-đa đi ra trận
được, 27số là bảy mươi bốn ngàn sáu trăm. 28Con-cháu của Y-sa-ca, dòng-dõi
họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên,
tức là mọi người trong chi-phái Y-sa-ca đi ra trận được, 29số là năm mươi
bốn ngàn bốn trăm. 30Con-cháu của Sa-bu-lôn, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và
tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong
chi-phái Sa-bu-lôn đi ra trận được, 31số là năm mươi bảy ngàn bốn trăm.
32Về hậu-tự Giô-sép, là con-cháu Ép-ra-im, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và
tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong
chi-phái Ép-ra-im đi ra trận được, 33số là bốn mươi ngàn năm trăm.
34Con-cháu Ma-na-se, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng
tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Ma-na-se đi ra
trận được, 35số là ba mươi hai ngàn hai trăm. 36Con-cháu Bên-gia-min,
dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi
sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái Bên-gia-min đi ra trận được, 37số
là ba mươi lăm ngàn bốn trăm. 38Con-cháu Đan, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và
tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong
chi-phái Đan đi ra trận được, 39số là sáu mươi hai ngàn bảy trăm.
40Con-cháu A-se, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình, cứ kể từng tên,
từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người trong chi-phái A-se đi ra trận được, 41số
là bốn mươi mốt ngàn năm trăm. 42Con-cháu Nép-ta-li, dòng-dõi họ tùy theo họ-hàng
và tông-tộc mình, cứ kể từng tên, từ hai mươi tuổi sắp lên, tức là mọi người
trong chi-phái Nép-ta-li đi ra trận được, 43số là năm mươi ba ngàn bốn
trăm. 44Đó là những người mà Môi-se, A-rôn, và mười hai quan-trưởng Y-sơ-ra-ên
kê sổ; mỗi quan-trưởng kê sổ cho tông-tộc mình. 45Thế thì, hết thảy những
người trong dân Y-sơ-ra-ên đã được nhập sổ tùy theo tông-tộc mình, từ hai mươi
tuổi sắp lên, tức là mọi người trong Y-sơ-ra-ên đi ra trận được, 46số là
sáu trăm ba ngàn năm trăm năm mươi. 47Nhưng người Lê-vi, theo chi-phái tổ-phụ
mình, không kê sổ chung với những chi-phái khác. 48Vì Đức Giê-hô-va có
phán cùng Môi-se rằng: 49Ngươi chớ kê sổ chi-phái Lê-vi, và cũng đừng dựng
bộ họ chung với dân Y-sơ-ra-ên; 50nhưng hãy cắt phần người Lê-vi coi-sóc đền-tạm
chứng-cớ, hết thảy đồ-đạc và các món thuộc về đền-tạm. Ấy là người Lê-vi sẽ
chuyên-vận đền-tạm và hết thảy đồ-đạc nó, cùng sẽ làm công-việc về đền-tạm và
đóng trại ở chung quanh đền-tạm. 51Khi nào đền-tạm dời chỗ, thì người
Lê-vi sẽ tháo dỡ nó; khi nào đền-tạm dừng lại, thì họ sẽ dựng nó lên; còn người
ngoại đến gần sẽ bị xử-tử. 52Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải đóng ở trong trại-quân
mình, và mỗi trại-quân đội-ngũ, phải đóng gần bên ngọn cờ mình. 53Nhưng
người Lê-vi sẽ đóng trại chung-quanh đền-tạm chứng-cớ, để đừng có sự giận-dữ
cùng hội-dân Y-sơ-ra-ên; người Lê-vi sẽ coi-sóc đền-tạm chứng-cớ.”
Khi người dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ
Ê-díp-tô, có 600.000 người rời đi.
Tính tổng dân số, con số này sẽ lên tới
hơn 1.000.000 người.
Những người này được lãnh đạo và chỉ huy
như thế nào?
Mỗi chi phái có một người lãnh đạo, và mỗi
chi phái di chuyển một cách có tổ chức.
Các trại được thành lập và di chuyển như
thế nào?.
(Dân-số Ký 2:1-34) “1Đức
Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn rằng: 2Dân Y-sơ-ra-ên mỗi người phải
đóng trại gần bên ngọn cờ mình, ở dưới bảng-hiệu của tông-tộc mình, đối ngang
nhau vây chung-quanh hội-mạc. 3Trại-quân Giu-đa sẽ đóng tại hướng đông, về phía
mặt trời mọc, với ngọn cờ và những đội-ngũ của mình. Quan-trưởng của người
Giu-đa là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp; 4và quân-đội người, cứ theo
kê sổ, cọng bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người. 5Chi-phái Y-sa-ca phải đóng
trại bên Giu-đa; quan-trưởng của người Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con trai
Xu-a; 6và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi bốn ngàn bốn trăm
người. 7Kế đến chi-phái Sa-bu-lôn; quan-trưởng của người Sa-bu-lôn là
Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn, 8và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm
mươi bảy ngàn bốn trăm người. 9Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân
Giu-đa, từng đội-ngũ, cọng một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Họ phải
đi tiên-phong. 10Ngọn cờ của trại-quân Ru-bên và những đội-ngũ mình, phải đóng
về hướng nam. Quan-trưởng của người Ru-bên là Ê-li-su, con trai của
Sê-đêu; 11và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi sáu ngàn năm
trăm người. 12Chi-phái Si-mê-ôn phải đóng trại bên Ru-bên; quan-trưởng của
người Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên, con trai của Xu-ri-ha-đai; 13và quân-đội
người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi chín ngàn ba trăm người. 14Kế đến
chi-phái Gát; quan-trưởng của người Gát là Ê-li-a-sáp, con trai của
Rê-u-ên; 15và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi lăm ngàn sáu
trăm năm mươi người. 16Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ru-bên, từng
đội-ngũ, cọng một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Họ phải đi thứ
nhì. 17Sau ấy, hội-mạc sẽ đi với trại-quân Lê-vi, ở giữa các trại-quân khác; trại-quân
Lê-vi sẽ đi theo thứ-tự như đã đóng, mỗi người theo hàng-ngũ và theo ngọn cờ
mình. 18Ngọn cờ của trại-quân Ép-ra-im và những quân-đội người phải đóng về hướng
tây; quan-trưởng của người Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút; 19và
quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi ngàn năm trăm người. 20Chi-phái
Ma-na-se phải đóng trại bên Ép-ra-im; quan-trưởng của người Ma-na-se là
Ga-ma-li-ên, con trai của Phê-đát-su; 21và quân-đội người, cứ theo kê sổ,
cọng ba mươi hai ngàn hai trăm người. 22Kế đến chi-phái Bên-gia min;
quan-trưởng của người Bên-gia-min là A-bi-đan, con trai của
Ghi-đeo-ni; 23và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng ba mươi lăm ngàn bốn
trăm người. 24Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Ép-ra-im, từng đội-ngũ,
cọng một trăm tám ngàn một trăm người. Họ phải đi thứ ba. 25Ngọn cờ của trại-quân
Đan và những quân-đội họ phải đóng về hướng bắc. Quan-trưởng của người Đan là
A-hi-ê-xe, con trai của A-mi-sa-đai; 26và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng
sáu mươi hai ngàn bảy trăm người. 27Chi-phái A-se phải đóng trại bên Đan;
quan-trưởng của người A-se là Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran; 28và quân-đội
người, cứ theo kê sổ, cọng bốn mươi mốt ngàn năm trăm người. 29Kế đến
chi-phái Nép-ta-li; quan-trưởng của người Nép-ta-li là A-hi-ra, con trai của
Ê-nan; 30và quân-đội người, cứ theo kê sổ, cọng năm mươi ba ngàn bốn trăm
người. 31Vậy, các người đã kê sổ theo trại-quân Đan, cọng một trăm năm
mươi bảy ngàn sáu trăm người. Họ theo ngọn cờ mình phải đi hậu-binh. 32Đó là những
người trong dân Y-sơ-ra-ên mà người ta tu-bộ tùy theo tông-tộc mình, trong các
trại-quân hết thảy người đã kê sổ từng đội-ngũ là sáu trăm ba ngàn năm trăm năm
mươi người. 33Nhưng người Lê-vi không nhập sổ chung với dân Y-sơ-ra-ên,
tùy theo mạng của Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se. 34Dân Y-sơ-ra-ên y
theo mọi điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se, bèn đóng trại tùy theo ngọn cờ
mình, và mỗi người ra đi tùy theo họ-hàng và tông-tộc mình.”
Khi người dân Y-sơ-ra-ên dựng trại, đền
tạm được đặt ở giữa, và người Lê-vi thực hiện nghi lễ tại nơi thánh.
Khi sắp xếp trại, họ chia trại thành ba
nhóm: phía Đông (Sư tử), phía Nam (Bò Con), phía Bắc (Đại bàng) và phía Tây (Con
người), với đền tạm làm trung tâm..
Khi dựng trại, nhóm đầu tiên sẽ tiến lên
từ phía Đông (Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-lôn), và nhóm thứ hai sẽ tiến lên từ phía Nam
(Ru-bên, Si-mê-ôn, Gát), tiếp theo là đền tạm và người Lê-vi, nhóm thứ ba sẽ tiến
lên từ phía Tây (Ép-ra-im, Ma-na-se và Bên-gia-min), và nhóm thứ tư sẽ tiến lên
từ phía Bắc (Đan, A-se và Nép-ta-li).
Ngài đã sắp đặt để mỗi chi phái tiến
hành theo cờ của trại mình.
Trong Tân Ước thì không còn 12 chi phái
nữa, mà là 12 sứ đồ.
Tuy nhiên, chúng ta không phân biệt điều
đó.