Lời này được trích từ ghi chú viết tay quyển số 9 của thầy Ahn sahng-hong.
Giép-thê là con trai của một kỹ nữ nhưng
Đức Chúa Trời đã lập ông làm người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên.
Chúng ta có thể thấy tổ tiên của Đức
Chúa Giê-su sinh ra trong tội lỗi.
Tại sao Đức Chúa Giê-su được sinh ra bởi
dòng dõi này?
Bởi vì Đức Chúa Giê-su không đến để kêu
gọi người công bình mà kêu gọi kẻ tội nhân.
Chúng ta không được có thành kiến với
bất kỳ anh em nào của mình chỉ vì họ là tội nhân, khuyết tật về thể chất hoặc
phạm tội tà dâm.
Chúng ta không nên cho rằng mình là người
cao trọng hơn còn họ là tội nhân.
(Giô-suê 6:20-25) “20Vậy,
dân-sự la lên, và những thầy tế-lễ thổi kèn. Vừa khi dân-sự nghe tiếng kèn, bèn
la lớn lên, và vách thành liền ngã sập, dân-sự leo lên thành, mỗi người ngay
trước mặt mình. Chúng lấy thành, 21đưa gươm qua diệt mọi vật ở trong
thành, nào nam phụ lão ấu, cho đến bò, chiên, và lừa. 22Bấy giờ, Giô-suê nói
cùng hai người đã đi do-thám xứ mà rằng: Hãy vào trong nhà kỵ-nữ, biểu nàng và
mọi người thuộc về nàng đi ra, y như hai ngươi đã thề cùng nàng. 23Vậy,
hai người trai trẻ đã đi do-thám xứ, bèn vào biểu Ra-háp, cha mẹ nàng, anh em,
và mọi vật chi thuộc về nàng đi ra; hai người đem hết thảy gia-quyến nàng ra,
và để ở ngoài trại-quân Y-sơ-ra-ên. 24Đoạn, chúng phóng-hỏa cái thành, và
mọi vật ở trong, chỉ để bạc, vàng, và món chi bằng đồng, bằng sắt, nhập vào kho
của đền Đức Giê-hô-va. 25Vậy, Giô-suê bảo-tồn sự sống của Ra-háp là kỵ-nữ,
luôn nội nhà của cha nàng, và mọi vật chi thuộc về nàng; nàng ở giữa Y-sơ-ra-ên
cho đến ngày nay, vì nàng có giấu sứ-giả mà Giô-suê đã sai do-thám Giê-ri-cô.”
Khi người dân Y-sơ-ra-ên chiếm đóng
thành Giê-ri-cô, Ra-háp, một kỵ nữ thành Giê-ri-cô, đã giấu trong nhà bà hai
thám tử do Giô-suê phái.
Khi vua Giê-ri-cô sai người đi dò xét
thành phố, bà đã giấu họ dưới mái nhà và cứu họ khỏi nguy hiểm, nhờ vậy khi
Giô-suê chiếm được thành Giê-ri-cô, Ra-háp và gia đình cô đã được cứu.
Mặc dù Ra-háp là một kỵ nữ nhưng bà tin
vào công việc của Đức Chúa Trời, và tin chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ ban xứ
Ca-na-an cho Y-sơ-ra-ên.
Ra-háp bởi Sanh-môn sinh ra Bô-ô.
Ra-háp, một kỵ nữ, trở thành bà cố của
Đa-vít, và Đức Chúa Giê-su được sinh ra từ dòng dõi này.
(II Sa-mu-ên 11:1-5) “1Qua
năm mới, khi các vua thường ra tranh-chiến, Đa-vít sai Giô-áp cùng các tôi-tớ
mình và cả đạo-binh Y-sơ-ra-ên đánh giặc; chúng cướp-phá xứ dân Am-môn và vây
thành Ráp-ba. Nhưng vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem. 2Một buổi chiều kia, Đa-vít
chỗi dậy khỏi giường mình, đi dạo chơi trên nóc đền vua, bèn thấy một người nữ
đương tắm; người nữ ấy rất là lịch-sự. 3Đa-vít sai hỏi người nữ ấy là ai,
thì người ta thưa rằng: Ấy là Bát-sê-ba, con gái của Ê-li-am, vợ của U-ri, người
Hê-tít. 4Đa-vít sai người đem nàng đến. Nàng đến nhà vua và vua ngủ với
nàng. Sau khi nàng làm cho sạch sự ô-uế mình, bèn trở về nhà. 5Người nữ nầy
thọ-thai, sai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai.”
Đa-vít đang đi dạo trên nóc cung điện
thì nhìn thấy một người đàn bà đang tắm.
Nàng thật là đẹp.
Đa-vít đã cho người của mình tìm ra nàng
ấy là ai.
Đa-vít biết được nàng chính là
Bát-sê-ba, vợ của người đầy tớ của ông là U-ri.
Đa-vít đem Bát-Sê-ba đến gần mình, họ ngủ
với nhau và Bát-sê-ba sinh một đứa con trai.
“Bát-sê-ba” là một đàn bà tà dâm nhưng nàng
sinh ra Sa-lô-môn thông qua Đa-vít.
(Các Quan Xét 11:1-3) “1Giép-thê,
người Ga-la-át, là tay dõng-sĩ, con của một người kỵ-nữ, và cha là
Ga-la-át. 2Vợ của Ga-la-át có sanh cho người những con trai. Khi các con
trai của vợ ấy lớn lên, bèn đuổi Giép-thê đi, mà rằng: Mầy không được ăn phần
gia-tài trong nhà cha chúng ta, vì mầy là con của người đàn-bà khác. 3Vậy,
Giép-thê trốn xa anh em mình, và ở trong xứ Tóp. Có những đứa du-đãng hiệp lại
chung-quanh Giép-thê, và đi ra với người.”
Giép-thê là con trai của Ga-la-át và là
một chiến binh mạnh mẽ và đầy quyền năng vào thời của ông.
Tuy nhiên, Giép-thê là con trai của một kỵ
nữ.
Các con của vợ Ga-la-át ghét Giép-thê
nên đuổi ông ra khỏi nhà.
Giép-thê đến sống ở xứ Tóp, và tất cả những
tên côn đồ địa phương nổi tiếng về chiến đấu đã tập hợp lại và đi theo ông.
Trong khi Giép-thê đang làm người đứng đầu
một băng đảng, các trưởng lão của Ga-la-át đã đến gặp ông và cầu cứu vì dân
Am-môn đã xâm chiếm Y-sơ-ra-ên.
Ban đầu Giép-thê không hài lòng với điều
này.
Ông cãi lại rằng: “Tại sao các ông lại
đuổi tôi ra khỏi nhà cha tôi, ghét tôi? Tại sao bây giờ các ông lại cầu xin
giúp đỡ?”
Sau đó họ đáp rằng: “Nếu Giép-thê đánh bại
quân Am-môn, chúng tôi sẽ phục vụ ông như người lãnh đạo của họ.”
Thế là Giép-thê chấp nhận lời đề nghị của
các trưởng lão, trở thành chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, đánh bại dân Am-môn, trở
thành quan xét của Y-sơ-ra-ên.
Mặc dù Giép-thê là con của một kỹ nữ
nhưng Đức Chúa Trời đã chọn ông làm người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên.
(I Sa-mu-ên 1:1-5) “1Xưa tại
Ra-ma-tha-im-Xô-phim, có một người quê ở núi Ép-ra-im, tên là Ên-ca-na, con
trai của Giê-rô-ham, cháu của Ê-li-hu, chắt của Tô-hu, chít của Xu-phơ, người
Ép-ra-im; 2Ên-ca-na có hai vợ, người nầy tên là An-ne, và người kia tên là
Phê-ni-na. Phê-ni-na có con, còn An-ne không có. 3Mỗi năm, Ên-ca-na ở
thành mình đi lên Si-lô đặng thờ-phượng Đức Giê-hô-va vạn-quân, và dâng của tế-lễ
cho Ngài; tại Si-lô có hai con trai của Hê-li, là Hóp-ni và Phi-nê-a, thầy tế-lễ
của Đức Giê-hô-va. 4Đến ngày Ên-ca-na dâng tế-lễ, thì chia của-lễ ra từng phần
ban cho Phê-ni-na, vợ mình, và cho các con trai và con gái mình. 5Nhưng
người lại ban cho An-ne một phần bằng hai, vì người thương nàng, dẫu rằng Đức
Giê-hô-va khiến cho nàng son-sẻ.”
Có một người tên là Ên-ca-na ở vùng đồi
núi Ép-ra-im.
Ông có hai người vợ, một người tên Phê-ni-na
và người kia tên An-ne.
Phê-ni-na có con và An-ne không có con.
Ên-ca-na lên Si-lô mỗi năm một lần và
dâng của-lễ cho Đức Chúa Trời.
Vào ngày dâng lễ vật, Ên-ca-na luôn chia
một phần của lễ vật cho vợ ông là Phê-ni-na và mỗi đứa con của bà.
Tuy nhiên, Ên-ca-na đã chia cho “An-ne”
một phần gấp đôi.
Phê-ni-na luôn trêu chọc An-ne, nói rằng
chồng bà đang chia phần gấp đôi cho một người đàn bà không có con.
Điều này xảy ra hàng năm nên An-ne đã
đưa ra quyết định và thề nguyện với Đức Chúa Trời rằng: “Chúa ơi, nếu Ngài ban
cho con một đứa con trai, con sẽ bắt nó làm công việc của Chúa cho đến hết đời”.
An-ne đã nhận được phước lành của Đức
Chúa Trời và sinh ra một con trai, bà đặt tên là Sa-mu-ên.
Để thực hiện lời hứa với Đức Chúa Trời, An-ne
đợi Sa-mu-ên cai sữa rồi đưa Sa-mu-ên đến gặp thầy tế lễ Hê-li để làm việc tại đền
thờ.
Mặc dù An-ne là vợ thứ hai của ông,
nhưng Đức Chúa Trời đã sinh ra một đấng tiên tri vĩ đại thông qua “người vợ thứ
hai” đó.
(I Ti-mô-thê 3:2) “2Vậy,
người giám-mục cần phải không chỗ trách được, là chồng chỉ một vợ mà thôi, có
tiết-độ, có tài-trí, xứng-đáng, hay tiếp khách và khéo dạy-dỗ. ”
(I Ti-mô-thê 3:12-13) “12Các
chấp-sự chỉ nên làm chồng của một vợ mà thôi, phải khéo cai-trị con-cái và nhà
riêng mình. 13Vì ai khéo làm chức-vụ mình thì được bực cao-trọng và lòng rất
dạn-dĩ trong đức-tin đến Đức Chúa Jêsus-Christ.”
Giám mục và chấp sự phải là vợ một chồng,
không chỗ trách được, giỏi giảng dạy, giỏi đối xử với người lạ và giỏi chăm sóc
Hội thánh.
Ngài phán rằng giám mục và chấp sự (phó
tế) không được có thành kiến với anh em mình.
Đức
Chúa Trời kêu gọi kẻ tội nhân.
(Ma-thi-ơ 21:28-32) “28Các
ngươi nghĩ làm sao? Một người kia có hai đứa con trai; nói cùng đứa thứ nhứt,
mà rằng: Con ơi, bữa nay con hãy ra làm vườn nho. 29Đứa ấy thưa rằng:
Vâng; rồi không đi. 30Đoạn, người cha đi đến đứa thứ hai, cũng bảo như vậy.
Đứa nầy thưa rằng: Tôi không muốn đi. Nhưng sau ăn-năn, rồi đi. 31Trong
hai con trai đó, đứa nào làm theo ý-muốn của cha? Họ đáp rằng: Đứa thứ hai. Đức
Chúa Jêsus phán cùng họ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, những kẻ thâu
thuế và phường đĩ-điếm sẽ được vào nước Đức Chúa Trời trước các
ngươi. 32Vì Giăng đã theo đường công-bình đến cùng các ngươi, nhưng các
ngươi không tin, còn những kẻ thâu thuế và phường đĩ-điếm đã tin người; và các
ngươi, khi đã thấy điều ấy, sau cũng không ăn-năn đặng tin người.”
Đức Chúa Giê-su hỏi các thầy tế lễ cả và
trưởng lão một câu hỏi.
Một người đàn ông nọ có hai con trai và
ông bảo họ đi làm vườn nho.
Người con cả nói sẽ đi làm nhưng không
đi, người con thứ nói không muốn đi nhưng sau lại hối hận và đi.
Đức Chúa Giê-su hỏi ai trong hai người
con làm theo ý Cha.
Họ nói là người con trai thứ hai.
Trong ví dụ này, người con trai cả tượng
trưng cho các thầy tế lễ cả và các trưởng lão, còn người con thứ hai tượng
trưng cho những người thu thuế và phường đĩ điếm.
Ngài nói rằng Giăng đã đến với sự công
bình, nhưng các thầy tế lễ cả và các trưởng lão không tin ông, nhưng những người
thu thuế và phường đĩ điếm sau đó đã ăn năn và tin tưởng.
Đức Chúa Giê-su đã nói những người thu
thuế và phường đĩ điếm sẽ vào vương quốc Đức Chúa Trời trước các ngươi.
Đức Chúa Trời không tìm kiếm người công bình
mà tìm kiếm kẻ tội nhân.
(Lu-ca 7:36-38) “36Có một
người Pha-ri-si mời Đức Chúa Jêsus ăn tại nhà mình. Vậy, khi đã vào nhà người
Pha-ri-si thì Ngài ngồi bàn. 37Vả, có một người đàn-bà xấu nết ở thành đó,
nghe nói Đức Chúa Jêsus đương ngồi bàn tại nhà người Pha-ri-si, bèn đem đến một
bình ngọc trắng đựng đầy dầu thơm. 38Người đứng đằng sau, nơi chân Đức
Chúa Jêsus, khóc, sa nước mắt trên chân Ngài, rồi lấy tóc mình mà chùi; lại hôn
chân Ngài, và xức dầu thơm cho.”
Khi Đức Chúa Giê-su vào nhà một người
Pha-ri-si tên là Si-môn, một người đàn bà tội lỗi đến với một bình ngọc trắng đựng
đầy dầu thơm, xức chân Ngài, hôn và lấy tóc mình rửa.
Người Pha-ri-si nghĩ bụng, nếu Đức Chúa
Giê-su là đấng tiên tri thì biết người đàn bà này là một người đàn bà ô uế và tội
lỗi, làm sao Ngài có thể giao thân mình cho một người đàn bà ô uế?
Đức Chúa Giê-su thấu hiểu tấm lòng của Si-môn
và nói về tội của người đàn bà tà dâm và năm trăm đơ-ni-ê.
Đức Chúa Giê-su hỏi người Pha-ri-si rằng:
“Nếu một người mắc nợ năm trăm đơ-ni-ê, một người mắc năm mươi đơ-ni-ê, và cả
hai đều được tha, thì ai sẽ yêu người ấy hơn?”
Si-môn nói rằng ai được tha thứ nhiều
thì yêu thương nhiều hơn.
Ai phạm tội nhiều thì yêu mến Đức Chúa Trời
hơn.
Kinh Thánh nói rằng người đàn bà tà dâm
sau đó đã làm được những việc lớn lao.
(Ma-thi-ơ 9:10-13) “10Vả,
đương khi Đức Chúa Jêsus ngồi ăn tại nhà Ma-thi-ơ, có nhiều người thâu thuế
cùng kẻ xấu nết đến ngồi ăn với Ngài và môn-đồ Ngài. 11Người Pha-ri-si thấy
vậy, thì nói cùng môn-đồ Ngài rằng: Làm sao thầy các ngươi ngồi ăn chung với
người thâu thuế và kẻ xấu nết vậy? 12Đức Chúa Jêsus nghe điều đó, bèn phán
rằng: Chẳng phải là người khỏe-mạnh cần thầy thuốc đâu, song là người có bịnh. 13Hãy
đi, và học cho biết câu nầy nghĩa là gì: Ta muốn sự thương-xót, nhưng chẳng muốn
của-lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công-bình, song kêu kẻ có tội.”
Người Pha-ri-si chỉ trích Đức Chúa
Giê-su vì Ngài ăn uống với những người thu thuế và tội nhân.
Tuy nhiên, Đức Chúa Giê-su nói rằng Ngài
đến để kêu gọi tội nhân, và những ai phạm tội nhiều thì yêu mến Ngài (Đức Chúa Giê-su)
hơn.
(Giăng 4:16-18) “16Đức
Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. 17Người
đàn-bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Jêsus lại phán: Ngươi nói rằng:
Tôi không có chồng, là phải lắm. 18vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà
ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy.”
Đây là cuộc trò chuyện giữa Đức Chúa
Giê-su và một đàn bà Sa-ma-ri.
Người đàn bà Sa-ma-ri này trước đây đã
có năm đời chồng.
Hiện chưa rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc ly
hôn của những người chồng đó.
Đức Chúa Giê-su bảo người đàn bà Sa-ma-ri
gọi chồng mình lại.
Đối với người đàn bà Sa-ma-ri này, vấn đề
với chồng bà là điều bà muốn giấu kín.
Trong Giăng 4:17, người đàn bà đáp: “Tôi
không có chồng”.
Đức Chúa Giê-su nói với bà rằng: “Ngươi
nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm.”
Đức Chúa Giê-su đã biết mọi điều về người
đàn bà này.
Trước đây bà có 5 đời chồng, người đàn
ông bà đang chung sống hiện nay không phải là chồng bà.
Trong Giăng 4:18 nói rằng bà đã có năm đời
chồng, nhưng người hiện tại không phải là chồng bà, những điều bà nói đều đúng.
Người đàn bà Sa-ma-ri rất ngạc nhiên khi
Đức Chúa Giê-su nói với bà những điều đáng xấu hổ này.
Người đàn bà Sa-ma-ri này thực ra muốn
che giấu vấn đề người chồng của mình.
Bà không thể nào coi Đức Chúa Giê-su, Đấng
biết hết mọi tội lỗi của mình, lại là một người bình thường.
Một sự thay đổi đã xảy ra trong lòng người
đàn bà Sa-ma-ri này.
Trước hết, Đức Chúa Giê-su hạ mình xuống
và trở nên gần gũi với người đàn bà này, chỉ ra tội lỗi của bà, dẫn bà đến sự
ăn năn và cuối cùng dạy bà thế nào là sự thờ phượng đích thực.
“Người đàn bà” này là một người tà dâm,
nhưng bà đã ăn năn, tiếp nhận Đức Chúa Giê-su và sau đó đã làm những việc lớn
lao.
(Giăng 8:3-5) “3Bấy giờ,
các thầy thông-giáo và các người Pha-ri-si dẫn lại cho Ngài một người đàn-bà đã
bị bắt đang khi phạm tội tà-dâm; họ để người giữa đám đông, 4mà nói cùng Đức
Chúa Jêsus rằng: Thưa thầy, người đàn-bà nầy bị bắt quả-tang về tội
tà-dâm. 5Vả, trong luật-pháp Môi-se có truyền cho chúng ta rằng nên ném đá
những hạng người như vậy; — còn thầy, thì nghĩ sao?”
Các thầy thông-giáo và người Pha-ri-si
đem đến một người đàn bà bị bắt quả tang tà dâm, bắt bà đứng giữa và hỏi Đức
Chúa Giê-su một câu hỏi.
Thưa thầy! Người đàn bà này bị bắt quả
tang tà dâm và Luật pháp Môi-se quy định rằng bất cứ ai phạm tội như vậy đều phải
bị ném đá. Còn thầy, thì nghĩ sao?
Họ tìm cớ để tố cáo Đức Chúa Giê-su.
Đức Chúa Giê-su cúi xuống và dùng ngón
tay viết điều gì đó trên đất.
Ngài bảo họ rằng: “Ai trong các ngươi là
người vô-tội, hãy trước nhứt ném đá vào người.”
Sau đó, từng người một rời đi, chỉ để lại
người đàn bà và Đức Chúa Giê-su.
Đức Chúa Giê-su hỏi người đàn bà rằng: “Hỡi
mụ kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu?”
Người đàn bà nói rằng họ đều đã đi rồi.
Đức Chúa Giê-su nói: “Ta cũng không định
tội ngươi”.
Ngài bảo hãy đi và đừng phạm tội nữa.
Đức Chúa Giê-su đã tha thứ tội lỗi cho
người đàn bà tà dâm.
Trong Ma-thi-ơ 1:16-, liệt kê gia phả của
Đức Chúa Giê-su và cho thấy tổ tiên của Ngài (từ Giu-đa đến Sa-lô-môn) đều sinh
ra trong tội lỗi.
(Sáng-thế Ký 38:12-18) “12Ngày
qua tháng lại, con gái của Su-a, vợ Giu-đa, qua đời. Khi đã nguôi lòng, thì
Giu-đa đi cùng bạn là Hi-ra, người A-đu-lam, lên đến nơi mấy thợ hớt lông chiên
mình, tại Thim-na. 13Người ta cho nàng Ta-ma hay điều đó mà rằng: Nầy, ông
gia ngươi đi lên Thim-na đặng hớt lông chiên. 14Nàng bèn cởi áo góa-bụa
mình ra lấy lúp che mặt, và bao-phủ mình lại, rồi ngồi trước cửa thành Ê-na-im,
bên con đường đi về Thim-na; làm vậy là vì nàng đã thấy Sê-la khôn-lớn rồi,
nhưng họ không gả mình cho chàng làm vợ. 15Giu-đa thấy nàng, cho là một kỵ-nữ,
vì nàng che mặt, 16bèn lại gần mà nói rằng: Hãy cho ta đến cùng nàng; vì cớ
người không biết nàng là dâu mình. Nàng đáp rằng: Người sẽ cho tôi món chi đặng
đi đến cùng tôi? 17Đáp rằng: Ta sẽ gởi cho nàng một con dê con của bầy ta.
Nàng hỏi: Người sẽ cho tôi một của chi làm tin, cho đến chừng nào sẽ gởi con
dê? 18Đáp rằng: Ta sẽ cho nàng của chi làm tin bây giờ? Nàng đáp: Con dấu,
dây và cây gậy của người đương cầm nơi tay. Người liền cho, đi lại cùng nàng;
nàng thọ-thai vì người vậy. Đoạn, nàng đứng dậy mà đi.”
Giu-đa có ba người con trai.
Con trai cả là Ê-rơ, con thứ hai là
Ô-nan, con thứ ba là Sê-la.
Người con trai cả Ê-rơ lấy vợ và lấy vợ
tên là Ta-ma.
Tuy nhiên, vì Ê-rơ, con trai cả của
Giu-đa, là kẻ gian ác trong mắt Đức Chúa Trời nên Đức Chúa Trời đã giết anh ta.
Vậy Giu-đa bảo Ô-nan, con trai thứ hai,
ngủ với Ta-ma, con dâu ông để nối dõi tông đường.
Thế là người con trai thứ hai Ô-nan đã
ngủ với vợ của anh trai mình.
Ô-nan cảm thấy bực tức vì nếu ngủ với “vợ
Ê-rơ, con trai cả” và sinh con thì sẽ trở thành “con của Ê-rơ”.
Vì vậy Ô-nan đã đi lo việc kinh doanh của
mình ở nơi khác.
Vì điều này là gian ác trước mắt Chúa
nên người con trai thứ hai (Ô-nan) cũng bị giết.
Bây giờ, Sê-la, con út, vẫn còn ở lại với
ông, và Giu-đa cảm thấy mình có thể mất cả ba người con trai nếu tiếp tục không
ngăn cản và ông tìm cách viện cớ.
Giu-đa bảo con dâu về nhà bố mẹ đẻ chờ,
đứa con út chưa lớn nên đợi đến khi lớn hơn.
Tuy nhiên, mặc dù đứa con thứ ba là Sê-la
đã lớn nhưng không hề có tin tức gì từ cha chồng.
Vì vậy, Ta-ma nghĩ ra một kế hoạch.
Ta-ma nghĩ rằng cha chồng là Giu-đa đến
hớt lông nên đã cải trang thành một kỵ nữ và dụ dỗ cha chồng trên con đường mà cha
chồng Giu-đa đi qua.
Ta-ma đã ngủ với Giu-đa.
Giu-đa nói rằng bây giờ ông không có tiền
nên sau này sẽ cho Ta-ma một con “dê”.
Thế là Ta-ma xin “của làm tin” cho đến
khi nhận được “con dê”.
Vì vậy, thứ mà Ta-ma yêu cầu là “Con dấu,
dây và cây gậy của Giu-đa.”
Sau đó, Ta-ma lẩn trốn.
Dù Giu-đa đã tìm kiếm nhưng ông không thể
tìm được.
Tuy nhiên, Ta-ma có thai khi ngủ với cha
chồng.
Khoảng ba tháng sau, khi Ta-ma mang thai
và bụng cô sưng lên thì có tin Ta-ma đã tà dâm.
Khi Giu-đa nghe tin, ông đến gặp Ta-ma,
kéo cô ra ngoài và ra lệnh thiêu sống cô.
Nhưng người đã khiến Ta-ma có thai là chủ
nhân của những thứ này, vậy con dấu và cây trượng này ai là người sở hữu?
Khi Ta-ma đưa món đồ đó cho Giu-đa xem, Giu-đa
đã nhận ra lỗi lầm của mình.
Vậy nên, con dâu của Giu-đa đã sinh đôi
với cha chồng, Phê-rết và Sê-rách.
Tại sao Đức Chúa Giê-su được sinh ra thông
qua dòng dõi này?
Bởi vì Đức Chúa Giê-su không đến để kêu
gọi người công bình mà để kêu gọi tội nhân.
Khi
chúng ta cố gắng nhìn thấy Đức Chúa Giê-su, thì Đức Chúa Giê-su hiện ra.
(Lu-ca 19:1-9) “1Đức Chúa
Jêsus vào thành Giê-ri-cô, đi ngang qua phố. 2Tại đó, có một người tên là
Xa-chê, làm đầu bọn thâu thuế, và giàu-có. 3Người đó tìm xem Đức Chúa
Jêsus là ai, nhưng không thấy được, vì đoàn dân đông lắm, mà mình lại thấp. 4Vậy,
Xa-chê chạy trước, trèo lên cây sung, để ngó thấy Đức Chúa Jêsus, vì Ngài phải
đi qua đó. 5Đức Chúa Jêsus đến chỗ ấy, ngước mắt lên mà phán rằng: Hỡi
Xa-chê, hãy xuống cho mau, vì hôm nay ta phải ở nhà ngươi. 6Xa-chê vội-vàng
xuống và mừng rước Ngài. 7Ai nấy thấy vậy, đều lằm-bằm rằng: Người nầy vào
nhà kẻ có tội mà trọ! 8Song Xa-chê đứng trước mặt Chúa, thưa rằng: Lạy
Chúa, nầy, tôi lấy nửa gia-tài mình mà cho kẻ nghèo, và nếu có làm thiệt-hại
ai, bất-kỳ việc gì, tôi sẽ đền gấp tư. 9Đức Chúa Jêsus bèn phán rằng: Hôm
nay sự cứu đã vào nhà nầy, vì người nầy cũng là con cháu Áp-ra-ham.”
Xa-chê là người thu thuế trưởng.
Theo cách nói ngày nay, đó chẳng phải giống
như người đứng đầu cơ quan thuế địa phương.
Vấn đề là vì vai trò của họ là thu thuế
để nộp cho La Mã nên họ bị coi là kẻ phản bội và người xấu theo quan điểm của
người Giu-đa.
Xa-chê nghe tin đồn Đức Chúa Giê-su sắp
đến Giê-ri-cô và quyết định đến gặp Ngài.
Khi Xa-chê đến gặp Đức Chúa Giê-su, có rất
nhiều người và bản thân Xa-chê lại thấp nên không thể nhìn thấy Đức Chúa Giê-su
vì bị người ta che khuất.
Xa-chê đang tự hỏi làm cách nào ông có
thể nhìn thoáng qua Đức Chúa Giê-su, và khi ông nhìn lên phía trước, ông thấy một
cây sung lớn, nhìn từ hướng ông đang đi, ông nghĩ rằng có thể từ trên đó ông có
thể nhìn thấy Đức Chúa Giê-su.
Đúng rồi, ông nghĩ mình nên lên đó và
nhìn thấy khuôn mặt của Đức Chúa Giê-su nên ông trèo lên cây sung đó.
Đúng như kế hoạch của Xa-chê, Đức Chúa
Giê-su đi ngang qua trước mặt ông.
Xa-chê sẽ hạnh phúc biết bao?
Ông vừa hét lên một lần vì ông nhìn thấy
khuôn mặt của Đức Chúa Giê-su.
Đức Chúa Giê-su ngước lên và hỏi một câu
hỏi.
Tên ngươi là gì? Vâng, tôi là Xa-chê,
Hãy xuống đây.
Ta sẽ ở nhà ngươi một ngày.
Đức Chúa Giê-su đến nhà Xa-chê và ở đó.
Xa-chê nói rằng ông là người đứng đầu
người thu thuế và ông rất giàu có.
Xa-chê thưa với Đức Chúa Giê-su rằng:
“Tôi sẽ lấy một nửa của cải ông có mà bố thí cho kẻ nghèo. Nếu ông làm thiệt-hại
ai thì ông sẽ đền gấp bốn lần mỗi thứ.”
Đức Chúa Giê-su đã nói gì?
Không có câu trả lời, Đức Chúa Giê-su nói
rằng hôm nay sự cứu rỗi đã đến ngôi nhà này.
Người ta muốn gặp Đức Chúa Giê-su, nhưng
hầu hết mọi người đều muốn thấy những phép lạ Ngài thực hiện.
Nếu chúng ta gặp Đức Chúa Giê-su như vậy,
chúng ta sẽ thất bại.
Nếu chúng ta tha thiết muốn gặp Đức Chúa
Giê-su, chúng ta sẽ gặp được Ngài.
(Ma-thi-ơ 14:22-33) “22Kế
đó, Ngài liền hối môn-đồ xuống thuyền, qua trước bờ bên kia, trong khi Ngài
đang truyền cho dân-chúng tan đi. 23Xong rồi, Ngài lên núi để cầu-nguyện
riêng; đến chiều tối, Ngài ở đó một mình. 24Bấy giờ, thuyền đã ra giữa biển rồi,
vì gió ngược, nên bị sóng vỗ. 25Song đến canh tư đêm ấy, Đức Chúa Jêsus đi
bộ trên mặt biển mà đến cùng môn-đồ. 26Khi thấy Ngài đi bộ trên mặt biển,
thì môn-đồ bối-rối mà nói rằng: Ấy là một con ma; rồi sợ-hãi mà la
lên. 27Nhưng Đức Chúa Jêsus liền phán rằng: Các ngươi hãy yên lòng; ấy là
ta đây, đừng sợ! 28Phi-e-rơ bèn thưa rằng: Lạy Chúa, nếu phải Chúa, xin
khiến tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa. 29Ngài phán rằng: Hãy lại
đây! Phi-e-rơ ở trên thuyền bước xuống, đi bộ trên mặt nước mà đến cùng Đức
Chúa Jêsus. 30Song khi thấy gió thổi, thì Phi-e-rơ sợ-hãi, hòng sụp xuống
nước, bèn la lên rằng: Chúa ơi, xin cứu lấy tôi! 31Tức thì Đức Chúa Jêsus
giơ tay ra nắm lấy người, mà nói rằng: Hỡi người ít đức-tin, sao ngươi hồ-nghi
làm vậy? 32Ngài cùng Phi-e-rơ lên thuyền rồi, thì gió yên-lặng. 33Các
người trong thuyền bèn đến quì lạy Ngài mà nói rằng: Thầy thật là Con Đức Chúa
Trời!”
Đức Chúa Giê-su rao giảng và làm nhiều
phép lạ khắp biển Ga-li-lê.
Ngài cho 5.000 người ăn bằng năm chiếc
bánh và hai con cá.
Sau đó, Ngài giục các môn đồ đi thuyền
vượt biển Ga-li-lê trước. Tại sao?
Vì họ tin rằng Đức Chúa Giê-su đang làm
phép lạ, nên dân chúng muốn dùng vũ lực bắt Ngài và tôn Ngài làm vua của họ.
Vì vậy, Ngài nhanh chóng thúc giục các
môn đồ vượt qua biển, còn Đức Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện.
Sau đó, Ngài đi bộ một mình trên mặt nước
vào ban đêm.
Ở đây là khoảng canh tư, thời gian bây
giờ là khoảng 4 giờ sáng.
Các môn đồ đã lên đường từ rất sớm và
đang ở giữa biển trên thuyền.
Một cơn gió ngược thổi mạnh, khiến thuyền
khó di chuyển về phía trước.
Rồi Đức Chúa Giê-su hiện ra, đi trên mặt
nước.
Các môn đồ giật mình sợ hãi, tưởng là
ma.
Đức Chúa Giê-su nói rằng: “Hãy can đảm! Các
ngươi hãy yên lòng; ấy là ta đây, đừng sợ hãi.”
Phi-e-rơ ngạc nhiên khi thấy Đức Chúa
Giê-su đi trên mặt nước.
Vì thế Phi-e-rơ xin Đức Chúa Giê-su cho
ông cũng đi trên mặt nước.
Đức Chúa Giê-su bảo rằng: “Hãy đến đây”,
nên Phi-e-rơ bước ra khỏi thuyền và đi trên mặt nước.
Nhưng gió nổi, sóng vỗ, Phi-e-rơ lo sợ
mình sẽ chết đuối.
Từ lúc đó, Phi-e-rơ bắt đầu chìm.
Vì vậy, Phi-e-rơ cầu xin Chúa hãy cứu ông.
Đức Chúa Giê-su đã giơ tay ra cứu Phi-e-rơ.
Đức Chúa Giê-su nói với Phi-e-rơ rằng: “Hỡi
người ít đức-tin, sao ngươi hồ-nghi làm vậy”
Khi Phi-e-rơ không nghi ngờ và bước ra,
ông đã không bị chìm, nhưng một khi ông bắt đầu nghi ngờ, ông bắt đầu chìm xuống.
Điều chúng ta nhận ra qua những lời này
là chúng ta học được rằng chúng ta nên có đức tin chỉ hướng về Đức Chúa Giê-su
và tiến về phía trước, chứ không phải đức tin sợ hãi sóng gió thế gian.
Khi chúng ta sống cuộc sống đức tin, có
những lúc chúng ta có thể tiến về phía trước một cách nhanh chóng khi có gió thổi
ngược, nhưng cũng có những lúc chúng ta gặp phải những cơn gió ngược và trải
qua thời gian khó khăn.
Tại sao chúng ta gặp phải trở ngại?
Điều này xảy ra khi chúng ta quên mất ân
điển của Chúa.
Điều này xảy ra ngay cả khi chúng ta
đang sống một đời sống đức tin tốt đẹp nhưng lại quên mất ân điển của Chúa.
Hôm nay chúng ta học hỏi lời “con trai của
kỹ nữ” và “tội nhân”,
Chúng ta biết rằng Giép-thê là con trai
của một kỹ nữ nhưng Đức Chúa Trời đã dùng ông để trở thành một người vĩ đại.
Đức Chúa Trời không gọi người công bình mà
kêu gọi tội nhân.
Amen!!!